Đôi nét về Kabuki – Nghệ thuật sân khấu truyền thống Nhật Bản

Doi net ve Kabuki - Nghe thuat san khau truyen thong Nhat Ban

Đặc điểm của Kabuki là gì? - Bạn cùng nhà

Kabuki đã phát triển trong khoảng thời gian 400 năm. Trước khi phong cách ngày nay được hoàn thiện, mọi người ở nhiều vai trò khác nhau, bao gồm diễn viên, người làm đạo cụ và người sáng tạo Kyogen, đã đưa ra các ý tưởng để làm hài lòng khán giả và trau chuốt về khâu sản xuất cũng như cách thể hiện. Kể từ đó nó đã phát triển thành một loại hình nghệ thuật biểu diễn độc đáo. Đặc điểm của Kabuki là gì? Tại sao chỉ có đàn ông diễn xuất? Hơn nữa, chúng ta sẽ khám phá sự phát triển độc đáo của thế giới Kabuki thông qua ý nghĩa trang điểm của các diễn viên và cơ chế sân khấu đặc biệt không giống bất kỳ nơi nào trên thế giới.

Từ nguyên của Kabuki xuất ra từ “傾く = kabuku”

Nguồn gốc của từ kabuki là từ “kabuku”. Đó là một từ dùng để chỉ những người có ngoại hình khác hoặc hành vi kỳ lạ, và những người xuất hiện ở các thành phố lớn như Kyoto và Edo từ thời Sengoku đến đầu thời Edo thường được gọi là “Kabukiya”.

Kabuku cũng được viết là “nghiêng” và được cho là có nghĩa “người có khuynh hướng sukisha” hơn là sukisha, người quen thuộc với nghi lễ trà đạo và thơ waka. Từ kabuki được áp dụng cho thái độ biểu cảm của kabuki, tích cực kết hợp văn hóa và phong tục mới trên sân khấu, mang lại niềm vui và sự ngạc nhiên cho khán giả.

Thuật ngữ “Kabuki” được sử dụng phổ biến ngày nay là sự thể hiện rõ ràng các yếu tố biểu đạt trên sân khấu, bao gồm Nagauta, Joruri, khiêu vũ, v.v. Tuy nhiên, nó thực sự là một cái tên muộn hơn và đã được sử dụng từ thời hiện đại. Người ta nói rằng vào thời Edo, nó được gọi là “kyogen” hay “kyogen play.”

Ngoài ra, trong quá khứ, từ rạp hát thường dùng để chỉ Kabuki, vì vậy “đi xem Kabuki” là một cách nói mới. Ngay cả ở Tokyo sau thời Minh Trị, nhiều người nói rằng họ sẽ đi xem một vở kịch khi ra ngoài xem Kabuki. Nhân tiện, cái tên “Shingeki” trong lĩnh vực sân khấu xuất phát từ phong trào sân khấu mới nổi lên trong thời Minh Trị, định vị Kabuki là một “kịch cổ điển”.

Tất cả đàn ông trên sân khấu

Kabuki, theo nguyên tắc chung, là một vở kịch chỉ có nam giới biểu diễn trên sân khấu. Trước khi Kabuki ra đời, các nữ diễn viên hài không được phép biểu diễn trên sân khấu trước công chúng, một phần do những điều cấm của Phật giáo.

Izumo Okuni, người được cho là người sáng lập Kabuki, đã biểu diễn các điệu nhảy trong trang phục lòe loẹt và mang theo đàn shamisen, mặc dù cô ấy là phụ nữ. Đây không chỉ là một biểu hiện sống động mà còn là một hành động gây chấn động xã hội. một điều cấm kỵ.

Sau đó, các nhóm nữ diễn viên hài xuất hiện ở nhiều nơi, theo gương Izumo Okuni. Khi phụ nữ ở khu đèn đỏ thậm chí còn xuất hiện trong vở kịch “gái điếm kabuki”, Mạc phủ Edo đã cấm họ xuất hiện trên sân khấu với lý do vi phạm đạo đức công cộng. Sau đó, không có phụ nữ nào xuất hiện trên sân khấu trong hơn 260 năm, cho đến khi “nữ diễn viên shinpa” (nữ diễn viên kịch mới) ra đời vào năm 1891 (Meiji 24).

“Wakashu Kabuki” do các chàng trai trẻ xinh đẹp để tóc mái biểu diễn, đã lan rộng kể từ khi có lệnh cấm “gái mại dâm kabuki”, cũng bị cấm với lý do phá vỡ đạo đức công cộng. Chỉ những người đàn ông trưởng thành với búi tóc cao mới được phép biểu diễn trên sân khấu, dẫn đến việc tạo ra một hình thức kabuki độc đáo trong đó đàn ông cải trang thành phụ nữ, được gọi là “onnagata.”

Hơn nữa, các diễn viên chuyên đóng vai nam được gọi là “tachiyaku”, và các diễn viên nữ tạo thành nòng cốt của đoàn được gọi là “tateiyama.” Các diễn viên có thể đóng cả “tachiyaku” và “onnagata” các vai được gọi là “tachiyaku.” Họ được gọi là diễn viên và cũng đóng vai trò là diễn viên.

Vẻ đẹp của hình thức và tác dụng thanh lọc sân khấu “Mie”

Mie là một kỹ thuật diễn xuất bao gồm việc kiềm chế toàn bộ cơ thể và hoàn thiện hình thức đẹp mắt khi suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật đạt đến đỉnh điểm ở cao trào của vở kịch. Cần lưu ý rằng cách nói chính xác là nói “Mie-wo-suru” thay vì “Mie-no-kiru”, và Tachiyaku được cho là Mie-wo-suru, trong khi Onnagata là được cho là “Kimaru.”

Khi một diễn viên biểu diễn, một tsukeuchi, thường ngồi ở phía trên cùng của sân khấu (bên phải khi quay mặt về phía sân khấu), gõ vào một mảnh gỗ để tạo ra âm thanh. Âm thanh được mô tả là “battari”. Bằng cách thay đổi sự kết hợp giữa chuyển động và âm thanh của diễn viên, chẳng hạn như “Flap-Bata-Bata-tari” và “Flap-Bata-Bata-tari”’, nó tạo ra hiệu ứng ảo tưởng tương tự như cận cảnh hoặc dừng lại -chuyển động trong phim.

Gần cuối vở kịch (cuối vở kịch), tất cả các nhân vật tập hợp lại với nhau, và sau “Watari Zerif” (các diễn viên nối tiếp lời thoại của họ và quyết định về cùng một câu thoại ở cuối), mọi người biểu diễn theo phong cách phù hợp với vai diễn của họ. Đây là “Emen no Mie.” Đó là khoảnh khắc tượng trưng cho vẻ đẹp của Kabuki, giống như ngắm nhìn một bức tranh của Nishiki-e.

Các ví dụ khác bao gồm “Genroku Mie” do thế hệ đầu tiên “Ichikawa Danjuro”nghĩ ra, và “Stone Throwing Mie”của Benkei trong “Kanjincho.”Có nhiều loại khác nhau, chẳng hạn như “Fudo no Mie”, “Hashiramaki no Mie” (Hashiramaki no Mie: một màn trình diễn trong đó người biểu diễn giữ một cây cột bằng cả hai tay và cũng quấn một chân quanh nó). Theo nghĩa rộng, điệu “Nirami” do gia đình Ichikawa nổi tiếng biểu diễn trong buổi biểu diễn của họ là một kiểu mie, và được biểu diễn như một nghi lễ để xua đuổi tà ma khỏi khán giả và cầu mong sức khỏe tốt.

Cấu trúc sân khấu không giống bất kỳ nơi nào trên thế giới

Điều cốt yếu để giới thiệu nét đặc sắc của Kabuki là cấu trúc sân khấu độc đáo của nó.

“hanamichi” chạy qua hàng ghế khán giả từ cuối sân khấu (ở bên trái khi đối diện với sân khấu) và được sử dụng để ra vào của các diễn viên. Nơi các diễn viên dừng lại, xem và độc thoại lời thoại của họ được gọi là “shichi-san” (bảy phút từ màn và ba phút từ sân khấu), và là một vị trí quan trọng trong quá trình sản xuất. Nó mang khoảng cách giữa diễn viên và khán giả đến gần hơn và tăng thêm bầu không khí.

Ở Shichisan, có một cuộc đấu giá tên là “Suppon”(một cơ chế trong đó sân khấu đi lên từ bên dưới) và các nhân vật đến và đi từ đó thường là những người đến từ thế giới khác, chẳng hạn như ma, quái vật và phù thủy. Ví dụ, trong “ Meiboku Sendai Hagi” mô tả một vụ náo động tại nhà của gia đình Date, trong cảnh “Nikki Danjo” trỗi dậy từ một con rùa mai mềm, có ánh sáng trong bóng tối. ngọn nến được giơ ra để tạo ra một bầu không khí đáng ngờ.

Sân khấu chính có một sân khấu xoay gọi là “Bon”, là một thiết bị quan trọng cùng với đường hoa. Bắt nguồn từ Kabuki, nó không chỉ được sử dụng để thay đổi cảnh mà còn thể hiện sự trôi qua của thời gian hoặc để tạo ra chuyển động không gian bằng cách để diễn viên bước đi trong khi quay khay.

Ngoài ra, rèm trang trọng được sử dụng để đánh dấu sự bắt đầu và kết thúc của một vở kịch, cũng như những khoảng nghỉ (chuyển cảnh) của multi-makumono Kyogen (vở kịch dài). Phần mở đầu được kéo từ xấu đến tốt, rèm được kéo ngược lại, tốc độ và cách kéo có thể thay đổi tùy theo diễn xuất. Kabuki-za sử dụng màu đen, hồng và moegi (vàng-xanh), trong khi Nakamura-za sử dụng màu trắng, hồng và đen nên mỗi rạp có cách sắp xếp màu sắc khác nhau.

Việc diễn viên tự “làm mặt” cũng là một phần nghệ thuật.

Trong Kabuki, việc trang điểm trên sân khấu được gọi là “kao-masu” và tất cả đều do chính các diễn viên thực hiện. “Việc thể hiện khuôn mặt” là một công việc quan trọng có thể so sánh với diễn xuất, và một diễn viên nổi tiếng đã từng nói: “Phần khiến bạn lo lắng nhất là khi bạn đắp mặt”. Sơn màu trắng là một phương tiện quan trọng để các diễn viên xóa bỏ con người thật của mình và hóa thân hoàn toàn vào vai diễn diễn viên Kabuki.

Trang điểm trong Kabuki mang tính biểu tượng và có những quy ước cơ bản như “da trắng = người tốt, trung thực và cao thượng”, “màu da = dân thị trấn, kẻ ác nhỏ” và “đỏ = đầy tớ và thuộc hạ của kẻ ác”.

Những người hầu có khuôn mặt đỏ bừng xuất hiện trong kiệt tác “Shibaraku” (Shirakaku) của Kabuki được gọi là “Haradashi” và là “kẻ thù bên lề” (Hagataki) cấp thấp. “shiro-nuri”của Tachiyaku là vai thứ hai, nhưng với những thay đổi tinh tế, nó cũng được dùng cho “Iroaku” (Iroaku: nhân vật thứ hai, nhưng bản chất thật của anh ta là ác quỷ). Trong trường hợp của phụ nữ, màu trắng và đỏ thẫm cũng như cách vẽ của chúng được thay đổi để thể hiện các công chúa, gái thành phố, gái mại dâm, lâu đài nghiêng, cung nữ và tuổi tác ngày càng tăng.

Ngoài ra, có nhiều loại “Kumadori” tượng trưng cho Kabuki, chẳng hạn như “Mukimikuma” của “Sukeroku”, trẻ trung, có ý thức công bằng và được phụ nữ ưa chuộng, và “Kumadori”, tượng trưng cho sự tức giận và sức mạnh siêu phàm. Có “sujiguma” của “Kamakura Gongoro”, được đặc trưng bởi các vòng tròn màu đỏ thẫm trên khuôn mặt sơn trắng.

Mặt khác, trong vai phản diện, Kumadori, người được vẽ chữ “Aiguma” hơi xanh trên nền sơn trắng, lại rất ấn tượng. Nó được sử dụng cho những nhân vật phản diện quy mô lớn được gọi là “kuni kuzushi” (kuni kuzushi).

Trong hóa trang Kabuki, tính cách của nhân vật được xác định bởi màu sắc và loại kuma, đồng thời nó cũng giúp các diễn viên và khán giả chia sẻ bối cảnh và bối cảnh của vở kịch.

Công ty TNHH Giáo dục và Dịch thuật IFK

Nhấp vào một ngôi sao để đánh giá!

5 / 5. Lượt đánh giá: 437

Không có phiếu bầu cho đến nay! Hãy là người đầu tiên đánh giá bài này.

Bài viết liên quan